Ô nhiễm môi trường là gì? Các công bố khoa học về Ô nhiễm môi trường
Ô nhiễm môi trường là sự xâm nhập và gây hại của các chất gây ô nhiễm, chất thải và các hoạt động như công nghiệp, giao thông, nông nghiệp, và sự sinh hoạt của ...
Ô nhiễm môi trường là sự xâm nhập và gây hại của các chất gây ô nhiễm, chất thải và các hoạt động như công nghiệp, giao thông, nông nghiệp, và sự sinh hoạt của con người, tác động đến môi trường tự nhiên như không khí, nước và đất, gây ra những tác động có hại cho đời sống sinh vật và sức khỏe của con người. Ô nhiễm môi trường gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự cân bằng của hệ sinh thái, suy giảm nguồn tài nguyên tự nhiên và góp phần vào biến đổi khí hậu.
Ô nhiễm môi trường có thể được phân loại theo nhiều hình thức khác nhau, bao gồm danh định (từng loại ô nhiễm cụ thể), nguồn gốc (đâu là nguồn phát thải), và phạm vi (toàn cầu hay cục bộ). Dưới đây là một số chi tiết liên quan đến các hình thức phổ biến của ô nhiễm môi trường:
1. Ô nhiễm không khí: Đây là hình thức ô nhiễm phổ biến nhất và gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của con người và môi trường. Nguyên nhân bao gồm khí thải từ các nguồn như xe cộ, nhà máy, lò nung và nhiều hoạt động công nghiệp khác. Các chất gây ô nhiễm trong không khí bao gồm khí ozone, hợp chất có chứa nitơ và lưu huỳnh, tạp chất hạt bụi và các kim loại nặng.
2. Ô nhiễm nước: Đây là hình thức ô nhiễm môi trường xảy ra khi các chất gây ô nhiễm được xả thẳng vào các nguồn nước như sông, hồ, ao, cống rãnh và mực nước ngầm. Các nguồn gây ô nhiễm nước bao gồm nước thải công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt, chất thải hóa học, và chất ô nhiễm từ lũng chứa rác thải.
3. Ô nhiễm đất: Đây là hình thức ô nhiễm môi trường xảy ra khi các chất gây ô nhiễm được thải trực tiếp hoặc gián tiếp vào đất. Các nguồn ô nhiễm đất bao gồm sự sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu trong nông nghiệp, phế liệu công nghiệp, và chất thải từ các hoạt động khai thác mỏ và xây dựng.
4. Ô nhiễm tiếng ồn: Đây là hình thức ô nhiễm môi trường do sự phát ra quá mức của âm thanh gây ra bởi các nguồn như công trường xây dựng, nhà máy, máy bay, xe cộ và sự tiếp xúc với những hoạt động ồn ào trong cuộc sống hàng ngày. Ô nhiễm tiếng ồn có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, làm giảm chất lượng cuộc sống và gây ra rối loạn ngủ.
5. Ô nhiễm ánh sáng: Đây là hình thức ô nhiễm môi trường xảy ra khi ánh sáng nhân tạo từ đèn chiếu ánh sáng công cộng, các tòa nhà và quảng cáo chiếu vào môi trường tự nhiên. Ô nhiễm ánh sáng gây ảnh hưởng đến chu kỳ sinh học của các loài, như thiếu ngủ cho động vật và ảnh hưởng đến quá trình sinh sản của cây cối.
Ô nhiễm môi trường gây ra những tác động nghiêm trọng đến sức khỏe con người và đa dạng sinh học, và yêu cầu những biện pháp ứng phó và bảo vệ môi trường để duy trì một môi trường sống lành mạnh và bền vững.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ô nhiễm môi trường":
Ô nhiễm nước gây ra các thay đổi bệnh lý ở cá. Mô bệnh học, với vai trò là một chỉ báo việc tiếp xúc với các chất gây ô nhiễm, thể hiện một công cụ hữu ích để đánh giá mức độ ô nhiễm, đặc biệt là đối với các ảnh hưởng dưới mức chết và mãn tính. Tuy nhiên, một phương pháp tiêu chuẩn hóa cho việc mô tả và đánh giá các thay đổi mô học, chủ yếu sử dụng trong cá nước ngọt, vẫn còn thiếu. Trong bài báo này, các tác giả hiện tại đề xuất một công cụ tiêu chuẩn để đánh giá các phát hiện mô học có thể áp dụng cho các cơ quan khác nhau. Phương pháp dựa trên hai yếu tố: (1) sự mở rộng của một thay đổi bệnh lý được đánh giá bằng 'giá trị điểm'; và (2) tầm quan trọng bệnh lý của sự thay đổi này được xác định là một 'hệ số quan trọng'. Tổng của các giá trị điểm và các hệ số quan trọng nhân với nhau của tất cả các thay đổi được chẩn đoán dẫn đến các chỉ số khác nhau. Với những chỉ số này, phân tích thống kê có thể được thực hiện. Các phương pháp đánh giá dành cho mang, gan, thận và da được mô tả.
Một thí nghiệm trong chậu được thực hiện để so sánh hai chiến lược xử lý ô nhiễm bằng thực vật: tích tụ tự nhiên sử dụng thực vật siêu tích tụ Zn và Cd là
Sự giảm sút của quần thể cá hồi hồ (Salvelinus namaycush), cá được hồ (Coregonus artedii), cá suckers trắng (Catostomus commersoni) và các loài cá khác ở Hồ Lumsden được cho là do mức độ axit ngày càng tăng trong hồ. Một sự vắng mặt của cá cũng đã được quan sát thấy ở các hồ lân cận. Trong một số hồ, mức độ axit đã tăng hơn một trăm lần trong thập kỷ qua. Việc gia tăng độ axit dường như là kết quả từ sự rơi axit trong mưa và tuyết. Nguồn axit lớn nhất đơn lẻ được cho là khí sulfur dioxide phát thải từ các nhà máy luyện kim ở Sudbury, Ont. Năm 1971, các phép đo pH đã được thực hiện từ 150 hồ trong khu vực nghiên cứu tổng quát nằm cách Sudbury 65 km về phía tây nam. Khoảng 33 trong số các hồ này cho thấy pH dưới 4.5 và được mô tả là "có tính axit nghiêm trọng." Thêm vào đó, có 37 hồ có pH trong khoảng 4.5–5.5 và được gọi là hồ "bị đe dọa."
Trong nghiên cứu áp dụng này, chúng tôi sử dụng dữ liệu từ các hạt của Hoa Kỳ để xem xét các mô hình trong nồng độ hạt mịn (còn gọi là chất liệu hạt mịn hoặc PM2.5) như một tiêu chí đo lường ô nhiễm không khí trong khuôn khổ của đường cong Kuznets Môi trường (EKC). Chúng tôi đặc biệt chú ý đến vai trò của vốn xã hội và khái niệm về sự nông thôn. Nhất quán với những kỳ vọng, chúng tôi phát hiện rằng đỉnh điểm của EKC dao động giữa 24.000 USD và 25.500 USD cho nồng độ PM2.5 tùy thuộc vào ước lượng được sử dụng. Cũng nhất quán với những kỳ vọng, mức độ cao hơn của vốn xã hội tạo áp lực giảm đối với nồng độ PM2.5, nhưng tác động đó yếu hơn ở các khu vực nông thôn hơn. Hệ quả là việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có thể gây hại cho môi trường ở các mức thu nhập thấp hơn nhưng sẽ cải thiện môi trường khi thu nhập tiếp tục tăng.
Tại Canada, ngành chăn nuôi heo là một phần thiết yếu của khu vực nông nghiệp, nhưng sản phẩm chất thải chính của ngành này, nước thải heo, đặc biệt có hại cho môi trường. Điều kiện lưu trữ kị khí và việc sử dụng nước thải quá mức cho phân bón nông nghiệp góp phần, tương ứng, vào việc phát thải khí nhà kính và ô nhiễm thủy vực. Bài báo này cung cấp một cái nhìn tổng quan về những mối quan tâm về môi trường này và các công nghệ giảm thiểu hiện có. Ô nhiễm nước từ nước thải heo liên quan đến các chất dinh dưỡng mà nó chứa, chẳng hạn như nitrogen và phosphorus, trong khi các khí nhà kính chính được tạo ra bởi ngành chăn nuôi heo là metan và oxit nitơ. Các công nghệ sẵn có có thể tận dụng nước thải thông qua phân bón nông nghiệp, giảm phát thải khí nhà kính, bằng cách hạn chế sự hiện diện của dinh dưỡng, chẳng hạn, hoặc xử lý nước thải bằng cách sử dụng phương pháp tách rắn-lỏng, đốt khí hoặc các quá trình sinh học. Đặc biệt chú ý đến quá trình lọc sinh học do tiềm năng của nó trong việc đồng thời xử lý hai loại ô nhiễm này.
Nhiễm bẩn môi trường bởi các hóa chất rối loạn nội tiết (EDC) đã trở thành một trong những trọng tâm nghiên cứu và thảo luận chính sách gần đây. Các hóa chất nhân tạo nghi ngờ là EDC, được sử dụng làm nguyên liệu hoặc hóa chất tạo dẻo, đã được chứng minh là có khả năng giải phóng từ các sản phẩm nhựa. Để kiểm tra xem dịch lọc cho thẩm tách màng bụng liên tục (CAPD) có bị nhiễm bẩn bởi EDC hay không, chúng tôi đã xác định bisphenol A (BPA), nonylphenol (NP), di-(2-ethylhexyl)phthalate (DEHP) và di-n-butyl phthalate (DBP) trong dịch lọc đã qua sử dụng và trong dịch thoát từ các bệnh nhân suy thận bằng phương pháp sắc ký khí/kỹ thuật khối phổ. Nồng độ của BPA, NP, DEHP và DBP lần lượt là 0.02–0.23 ppb (μg/l), 0.09–0.22, 1.1–3.7 và <0.1–2.1 ppb trong dịch lọc đã qua sử dụng, và <0.01–0.07, <0.1–0.45, 0.35–1.23, và 0.42–1.76 ppb trong dịch thoát, từ đó mức nhiễm bẩn hàng ngày tối đa của BPA và NP qua CAPD được ước tính ở mức vi lượng và của các este phthalate ở mức 10-μg. Những nồng độ này thấp hơn nhiều so với liều độc hại được báo cáo cho đến nay, do đó khả năng CAPD gây nhiễm bẩn nghiêm trọng cho bệnh nhân là không cao.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10